cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

615/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 465
  • 6

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

25-12-2013

Theo Đơn khởi kiện ngày 08/10/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - cụ NĐ_Nguyễn Thị Khoa, đại diện theo ủy quyền là bà LQ_Dương Thị Bình (con gái cụ NĐ_Khoa) trình bày: Năm, 1940, cụ Dương Khối và cụ NĐ_Nguyễn Thị Khoa (cha mẹ bà LQ_Bình) tạo lập được khu vườn có diện tích 1.500m2; năm 1963 xây dựng được 02 gian nhà, nay tọa lạc tại phường AP, thành phố TK, tỉnh QN. Cha mẹ bà có con là ông Dương Văn Khối. Ông Khối có vợ là bà Trương Thị Đấu và con là Dương Thị Hoa. Sau khi bà Đấu chết, đến năm 1983, ông Khối lấy vợ là bà BĐ_Doãn Thị Hoa. Do hoàn cảnh của ông Khối, nên cha mẹ bà cho vợ chồng ông Khối ở khu đất trong vườn.


145/2013/GĐT/DS : Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 313
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-12-2013

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22-11-2006 và quá trình tố tụng; nguyên đơn ông NĐ_Dương Văn Tình trình bày: Ông là người Việt Nam định cư tại Canada, do có ý định đầu tư kinh doanh ở Việt Nam nên khoảng năm 1995 gia đình ông đã họp với sự tham gia của cụ LQ_Dương Xuyến Linh (cha của ông và ông BĐ_Phụng) và các em của ông là BĐ_Dương Văn Phụng, Dương Văn Xuyên, Dương Văn Quốc, Dương Thị Bé Liễu, LQ_Dương Thị Bé Thanh, Dương Văn Vũ để bàn bạc về việc ông gửi tiền về Việt Nam nhờ gia đình mua đất và đứng tên hộ. Tại cuộc họp này, gia đình đã thống nhất để ông gửi tiền về cho cụ LQ_Dương Xuyến Linh và bà LQ_Dương Thị Bé Thanh giữ, sau đó chuyển tiền cho ông BĐ_Dương Văn Phụng giao dịch mua đất và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông.


501/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1206
  • 28

Tranh chấp thừa kế

23-10-2012

Cụ Kể chết năm 1994, cụ Mật chết năm 1997 khi chết các cụ không để lại di chúc. Tài sản các cụ để lại gồm có: 05 gian nhà ở cấp 4 lợp ngói móc, 02 gian nhà bếp và công trình phụ trên diện tích 264,4m2 đất tại phố Hòa Bình, trị trấn BH. Số tài sản này hiện nay do anh BĐ_Nguyễn Văn Hớn và vợ là chị LQ_Phan Thị Nga đang quản lý sử dụng. Nay các nguyên đơn đều kiện đòi lại quyền quản lý sử dụng nhà đất của bố mẹ để lại để thờ cúng bố mẹ và liệt sĩ Nguyễn Văn Vượng.


58/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1592
  • 30

Tranh chấp thừa kế

05-11-2012

Về tài sản cố Chẩm và cố Ngát có nhà tranh vách đất, sân gạch, bể nước trên diện tích đất hiện nay là 650,24m2 (trích lục bản đồ năm 1973 ghi cố Chẩm, cố Ngát đứng tên sử dụng 706m2 đất) tại thôn Chính Trung, xã Trâu Quỳ, huyện GL, thành phố HN. Năm 1955 hai cố bị cụ Toàn (con dâu) tố là địa chủ nên bị tịch thu nhà, đất. Năm 1956 Nhà nước sửa sai hạ thành phần nên trả lại nhà đất cho 2 cố đồng thời cấp đất khác cho cụ Toàn. Cụ Toàn bán đất được cấp và xin lỗi hai cố, được hai cố chấp nhận nên cụ Toàn về ở cùng hai cố. Sau đó, cố Chẩm ra ở với cụ Lập và chết năm 1968 nên nhà chỉ còn cố Ngát và cụ Toàn ở. Năm 1979 cố Ngát ốm nặng, cụ Lập đón về chăm sóc và cố Ngát chết tại nhà cụ Lập. Năm 1980 cụ Toàn phá nhà của hai cố xây dựng nhà mới, tuy nhiên phần móng, bể nước và sân gạch của hai cố vẫn còn. Năm 1988, cụ Toàn cho con gái là bà Hạnh 227m2 đất, bà Hạnh đã bán, còn lại nhà trên 445m2 đất ông BĐ_Chiến quản lý, sử dụng.